Hậu quả Sự_kiện_năm_1956_ở_Hungary

Hungary

Từ ngày 10 tháng 11 đến 19 tháng 12, các hội đồng công nhân đã đàm phán với lực lượng chiếm đóng của Liên Xô. Tuy đạt được kết quả là sự phóng thích cho một số người, họ đã không thể đạt tới một sự rút lui quân đội Liên Xô. Hàng nghìn người Hungary bị bắt, bị giam giữ và bị trục xuất sang Liên Xô, nhiều vụ không hề có bằng chứng.[163] Xấp xỉ 200.000 người đã bỏ chạy khỏi Hungary,[164] khoảng 26,000 người bị chính phủ János đem ra xét xử, và 13,000 người trong số đó bị bỏ tù.[165] Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Géza Jeszenszky ước tính 350 người đã bị hành quyết.[129] Những cuộc phản kháng vũ trang và bãi công rời rạc của các hội đồng công nhân diễn ra tới tận giữa năm 1957, khiến nền kinh tế suy sụp.

Với hầu hết thành phố Budapest nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô từ ngày 8 tháng 11, Kádár János trở thành Thủ tướng của "Chính phủ Cách mạng Công-Nông" và Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hungary. Ít người Hungary tái gia nhập đảng, ban lãnh đạo của nó đã bị thanh trừng dưới sự giám sát của Đoàn chủ tịch Liên Xô, lãnh đạo bởi Georgy Maximilianovich MalenkovMikhail Andreyevich Suslov.[166] Dù số thành viên của Đảng đã giảm từ 800.000 trước cuộc nổi dậy xuống còn 100.000 người ở thời điểm tháng 12 năm 1956, Kádár János vẫn tăng cường được sự kiểm soát nhà nước Hungary và dần trung lập hoá những người bất mãn. Chính phủ mới tìm cách có được sự ủng hộ thông qua việc tán thành các nguyên tắc tự quyết đã được đề ra trong cuộc bạo động, nhưng quân đội Xô Viết vẫn ở lại.[167] Sau năm 1956, Liên Xô đã thanh trừng mạnh quân đội Hungary và tái lập chế độ chính ủy, chính trị viên trong các đơn vị còn lại. Tháng 5 năm 1957, Liên Xô giảm quân số đồn trú và theo hiệp ước Hungary chấp nhận sự hiện diện thường trực của quân đội Liên Xô.[168] Tuy đã can thiệp vào công việc nội bộ Hungary, Liên bang Xô viết vẫn tuyên bố quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác là "hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ, độc lập và chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau" [9]

Hội Chữ thập Đỏ Quốc tếQuân đội Áo thành lập các trại tị nạn tại TraiskirchenGraz.[164][169] Nagy Imre cùng với Georg Lukács, Géza Losonczy, và vợ goá của László Rajk, Júlia vào tị nạn tại Đại sứ quán Nam Tư khi các lực lượng Liên Xô tiến vào Budapest. Dù có những sự bảo đảm tự do rời khỏi Hungary từ phía người Liên Xô và chính phủ János, Imre và nhóm của ông bị bắt giữ khi tìm cách rời khỏi đại sứ quán ngày 22 tháng 11 và bị đưa tới Romania. Losonczy chết trong một cuộc tuyệt thực trong tù khi chờ đợi được đem ra xét xử khi những kẻ canh giữ ông "bất cẩn đẩy một ống dẫn thức ăn xuống khí quản của ông."[170] Những người còn lại trong nhóm bị đưa trở về Budapest năm 1958. Nagy Imre bị hành quyết bằng hình thức treo cổ cùng với Pál MaléterMiklós Gimes, sau những vụ xét xử bí mật vào tháng 6 năm 1958. Thi thể họ được đặt trong những ngôi mộ không bia tại Nghĩa trang Thành phố bên ngoài Budapest.[171]

Tới năm 1963, hầu hết tù nhân chính trị của cuộc nổi dậy Hungary năm 1956 đã được thả.[172] Trong cuộc tấn công tháng 11 năm 1956 của Liên Xô vào Budapest, Hồng y giáo chủ Mindszenty được trao qui chế tị nạn chính trị đại sứ quán Hoa Kỳ, nơi ông tiếp tục sống trong 15 năm, từ chối rời Hungary trừ khi chính phủ thay đổi lời buộc tội phản bội năm 1949 với ông. Vì sức khoẻ kém và vì yêu cầu từ Toà Thánh Vatican, cuối cùng ông rời toà đại sứ tới Áo tháng 9 năm 1971.[173]

Quốc tế

Dù có những ngôn từ hoa mỹ của phương Tây ủng hộ việc đẩy lui sự thống trị Đông Âu của Liên bang Xô viết; còn từ phía Liên Xô là những lời hứa hẹn về thắng lợi sắp tới của chủ nghĩa xã hội, giới lãnh đạo quốc gia trong giai đoạn này cũng như các nhà sử học sau đó coi thất bại của cuộc nổi dậy tại Hungary là bằng chứng cho thấy cuộc Chiến tranh Lạnh đã trở nên bế tắc.[174] Bộ trưởng Ngoại giao Tây Đức đã đề xuất rằng những người dân Đông Âu được khuyến cáo không "tiến hành các hành động kịch tính có thể dẫn tới những hậu quả kinh khủng cho họ." Tổng thư ký NATO đã gọi cuộc nổi dậy ở Hungary là "hành động tự tử hàng loạt của cả một dân tộc".[175] Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí năm 1957, Khrushchyov đã bình luận "sự ủng hộ của Hoa Kỳ... trên thực tế chính là cách ủng hộ như sợi dây thừng đối với một người bị treo cổ."[176] Mười hai năm sau, khi các lực lượng do Liên Xô lãnh đạo lại trấn áp một phong trào cải cách tương tựTiệp Khắc, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp Khắc Alexander Dubček, đã nhớ lại kinh nghiệm Hungary, yêu cầu các công dân của mình không kháng cự lại sự chiếm đóng. Sau khi cuộc nổi dậy tại Hungary bị trấn áp, một số quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản đã công khai lên tiếng chỉ trích "mô hình Xã hội Chủ nghĩa" do chính phủ Liên Xô áp đặt.[177]

Tập tin:Dag Hammarskjold.jpgTổng thư ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjöld

Tháng 1 năm 1957, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjöld, trước các nghị quyết của Đại hội đồng yêu cầu điều tra và giám sát các sự kiện ở Hungary bị Liên Xô chiếm đóng, đã thành lập Uỷ ban Đặc biệt về Vấn đề Hungary.[178] Uỷ ban này, với các đại diện từ Úc, Xây Lan, Đan Mạch, TunisiaUruguay, đã tiến hành các buổi xem xét tại New York, Geneva, Rôma, ViênLuân Đôn. Trong năm tháng, 111 người tị nạn đã được phỏng vấn, gồm cả các bộ trưởng, các chỉ huy quân sự và những quan chức khác của chính phủ Imre, các công nhân, các thành viên Hội đồng Cách mạng, các vị lãnh đạo nhà máy và kỹ thuật viên, những người cộng sản và không cộng sản, các sinh viên, nhà văn, nhà giáo, nhân viên y tế và binh sĩ Hungary. Các tài liệu, báo chí, bản sao đài phát thanh, ảnh, phim và nhiều tài liệu khác từ Hungary cũng đã được xem lại, cũng như lời chứng bằng văn bản của 200 người Hungary khác.[179] Các chính phủ Hungary và Romania từ chối không cho các quan chức Liên hiệp quốc thuộc uỷ ban này vào nước mình, và chính phủ Liên Xô không trả lời các yêu cầu cung cấp thông tin.[180] Báo cáo dài 268 trang của Uỷ ban[181] đã được trình lên Đại hội đồng tháng 6 năm 1957, đề cập tới quá trình cuộc nổi dậy và sự can thiệp của Liên Xô, và kết luận rằng chính phủ János và lực lượng chiếm đóng của Liên Xô đã vi phạm nhân quyền của người dân Hungary.[182] Một nghị quyết của Đại hội đồng được thông qua, lên án sự trấn áp người dân Hungary và quân đội chiếm đóng Liên bang Xô viết, nhưng không có thêm hành động nào khác được thực hiện.[183]

Dù cuộc bạo động 1956 đã trôi qua lâu, nhưng người ta vẫn thắc mắc về thái độ của Hoa Kỳ trong thời gian đó. Giáo sư Đại học John Hopkins - Charles Gati, từng là một cố vấn ngoại giao Hoa Kỳ, sau khi đọc được hồ sơ mật của CIA đã tiết lộ một số chi tiết. Ông cho rằng, trách nhiệm về vụ bạo động thuộc về Hoa Kỳ, vì người Mỹ đã cố gắng kích động nhân dân Hungary nổi dậy với mục đích đánh đổ chính phủ theo Xã hội Chủ nghĩa, hậu quả là Hungary phải gánh chịu không ít thiệt hại về nhân mạng và của cải. Trong hồi ký của ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, ông có viết: "Không hề có một công văn ngoại giao, không biểu hiện một áp lực nào, cũng như không một đề nghị nhờ ai làm trung gian. Không có gì cả". Theo những tài liệu đã được giải mật của cả người phương Tây lẫn Liên bang Xô viết, chính phủ Hoa Kỳ thời bấy giờ không muốn người Liên Xô lo lắng về một cuộc xung đột với các quốc gia phương Tây. Theo nhìn nhận của họ, lãnh tụ Nikita Sergeyevich Khrushchyov là một nhà cải cách, khác với các thành viên mang tư tưởng Stalin trong Đảng Cộng sản Liên Xô.[4] Mãi đến khi tình hình Hungary đã tương đối ổn định, Tổng thống Mỹ Eisenhower mới đưa ra đề nghị biểu quyết lên án Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc.[184]

Tại Thế vận hội tại Melbourne năm 1956, sự giải quyết vấn đề cuộc nổi dậy Hungary của Liên Xô đã dẫn tới một hành động tẩy chay của Tây Ban Nha, Hà Lan và Thuỵ Sĩ.[185] Tại Làng Olympic, phái đoàn Hungary đã xé lá cờ Cộng sản Hungary và dựng lên một lá cờ Hungary tự do. Một cuộc xung đột giữa các đội Liên Xô và Hungary đã xảy ra trong trận bán kết môn bóng nước. Trận đấu rất bạo lực, và đã phải tạm dừng ở phút cuối cùng để giải quyết cuộc ẩu đã giữa các khán giả. Trận đấu này, hiện được gọi là "Máu trong trận đấu dưới nước", đã trở thành chủ đề của nhiều bộ phim.[186][187] Đội tuyển Hungary giành thắng lợi 4-0 và sau này đoạt huy chương Vàng Olympic.[188] Theo bước cuộc nổi dậy năm 1956, toàn bộ đội bóng rổ Hungary đã đào tẩu.[189]

Các sự kiện tại Hungary đã tạo ra một sự rạn nứt tư tưởng bên trong các đảng Cộng sản Tây Âu. Bên trong Đảng Cộng sản Ý (PCI) một sự chia rẽ cũng diễn ra: hầu hết các thành viên bình thường và ban lãnh đạo, gồm cả Palmiro TogliattiGiorgio Napolitano, coi những người nổi dậy Hungary là phản cách mạng, như được viết trên l'Unità, tờ báo chính thức của PCI.[190] Tuy nhiên, Giuseppe Di Vittorio, lãnh đạo Cộng sản của Liên đoàn thương mại CGIL, bác bỏ lập trường của ban lãnh đạo, tương tự như các thành viên có ảnh hưởng trong đảng Antonio Giolitti, Loris Fortuna và nhiều trí thức Cộng sản khác, sau này họ đã bị trục xuất hay rời khỏi đảng. Pietro Nenni, Bí thư Quốc gia của Đảng Xã hội chủ nghĩa Ý, một đồng minh thân cận của PCI, cũng phản đối sự can thiệp của Liên Xô. Napolitano, được bầu làm Tổng thống nước Cộng hoà Ý năm 2006, đã viết trong bản lý lịch chính trị năm 2005 của mình rằng ông hối tiếc vì sự biện minh của mình cho hành động của Liên Xô tại Hungary, và rằng ở thời điểm ấy ông tin vào sự thống nhất của đảng và vai trò lãnh đạo cộng sản quốc tế của Liên bang Xô viết.[191]

Bên trong Đảng Cộng sản Anh (CPGB), sự bất bình khởi đầu với việc bác bỏ chủ nghĩa Stalin của John SavilleE.P. Thompson, các nhà sử học có ảnh hưởng và các thành viên của Nhóm các Nhà Sử học Cộng sản, lên đến đỉnh điểm với việc mất hàng nghìn đảng viên khi các sự kiện tại Hungary diễn ra. Peter Fryer, phóng viên cho tờ báo CPGB The Daily Worker, đã thông báo chính xác về sự trấn áp bạo lực với cuộc nổi dậy, nhưng những bản tin của ông đã bị kiểm duyệt khắt khe;[140] Fryer từ nhiệm khỏi tờ báo ngay khi quay trở về, và sau này bị khai trừ khỏi đảng cộng sản.

Tại Pháp, triết gia và nhà văn Pháp Albert Camus đã viết một bức thư ngỏ, Máu của những người Hungary, chỉ trích sự không hành động của phương Tây. Bức thư ngỏ này có đoạn:[4]

Nước Hung bị chà đạp, bị xiềng xích, đã nỗ lực cho tự do và công lý hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới trong vòng hai mươi năm qua.

— Albert Camus

Không những thế, những người cộng sản ôn hòa, như Emmanuel Le Roy Ladurie từ chức, chất vấn chính sách ủng hộ Liên Xô của Đảng cộng sản Pháp. Jean-Paul Sartre, dù vẫn là một đảng viên cộng sản trung thành, chỉ trích Liên Xô trong bài viết Le Fantôme de Staline (Bóng Ma của Staline) của ông, trong Situations VII.[192] Cùng với sự kiện liên quân Anh-Pháp-Israel tấn công Ai Cập, sự kiện năm 1956 ở Hungary được triết gia Bertrand Russell xem là sự kiện bất hạnh nhất trong năm 1956.[193]

Ghi nhớ

Lá cờ của phong trào nổi dậy năm 1956 được treo trước Toà nhà Nghị viện Hungary, để kỷ niệm 50 năm cuộc Cách mạng (2006).

Ngày 16 tháng 6 năm 1989, nhân kỷ niệm lần thứ 30 ngày ông bị hành quyết, thi thể của Nagy Imre đã được chôn cất lại trong danh dự.[171] Cộng hoà Hungary được thành lập vào năm 1989 đúng ngày kỷ niệm lần thứ 33 cuộc nổi dậy, và ngày 23 tháng 10 là ngày lễ quốc gia Hungary. Ngày 2 tháng 5 năm 1990, Quốc hội mới của nước Cộng hòa Hungary đã họp phiên đầu tiên. Quốc hội đã kỷ niệm cuộc nổi dậy năm 1956 bằng việc thông qua Đạo luật số XXVIII với lời nhận xét chính thức: "một cuộc cách mạng và cuộc đấu tranh đòi độc lập".[4]

Vào tháng 12 năm 1991, lời mở đầu của các hiệp ước của một Liên bang CHXHCN Xô viết đang tan rã, dưới sự lãnh đạo của Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, và Nga, đại diện bởi Boris Nikolayevich Yeltsin, đã chính thức xin lỗi về việc Liên Xô can thiệp vào tình hình Hungary năm 1956. Lời xin lỗi này đã được Tổng thống Liên bang Nga Yeltsin lặp lại năm 1992 trong một bài phát biểu trước nghị viện Hungary.[194]

Vào ngày 13 tháng 2 năm 2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã kỷ niệm lần thứ 50 cuộc nổi dậy Hungary. Ngoại trưởng Rice đã bình luận về những đóng góp của những người tị nạn của sự kiện năm 1956 với Hoa Kỳ và các nước tiếp nhận khác, cũng như vai trò của Hungary trong việc cung cấp nơi tị nạn cho người tị nạn Đông Đức trong những cuộc phản kháng năm 1989 chống lại chính quyền Đông Đức thời bấy giờ.[195] Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush cũng tới thăm Hungary ngày 22 tháng 6 năm 2006, để kỷ niệm sự kiện này.[196]

Sau khi Kadár János từ chức thì việc phục hồi danh dự và chính trị cho các nạn nhân của ông trong cuộc nổi dậy năm 1956 cũng được tiến hành và lần đầu tiên từ 1956 người dân có thể nhắc tên của Nagy Imre và Maléter Pál, viên tướng tham gia cuộc bạo động chống Quân đội Liên Xô. Dù khi đó những tên tuổi của Nagy Imre và Maléter Pál đã biến mất khỏi chính sử của Đảng Cộng sản, tên tuổi họ vẫn tồn tại trong tâm trí dân tộc Hungary.[197] Đến năm 2007, tại nghĩa trang Kerepesi ở Budapest, xảy ra một vụ phá hoại mộ cựu lãnh đạo Kádár János. Những người xâm phạm đã cướp lấy bình tro của phu nhân ông, cũng như xương trong chiếc quan tài mà Kádár János đang yên nghỉ. Thủ tướng Hungary Gyurcsány Ferenc - cựu lãnh đạo phong trào thanh niên dưới chế độ cộng sản - đã phê phán vụ phá hoại "ghê tởm, phi nhân tính và hèn nhát".

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sự_kiện_năm_1956_ở_Hungary http://www.isn.ethz.ch/php/documents/collection_wa... http://www.bartleby.com/63/86/186.html http://www.britannica.com/eb/article-219206/social... http://sportsillustrated.cnn.com/events/1996/olymp... http://www.cnn.com/SPECIALS/cold.war/guides/debate... http://www.eurozine.com/articles/2006-10-25-auer-e... http://www.flickr.com/photos/dbforum/sets/72057594... http://www.historicaltextarchive.com/books.php?op=... http://www.historicaltextarchive.com/books.php?op=... http://www.historicaltextarchive.com/books.php?op=...